Mật Tông (zh. 密宗 mì-zōng) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ. Mật Tông lại chia thành hai phái: Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna). Sự phát triển của Mật Tông gắn với các luận sư nổi tiếng như Subha Karasimha (Thiên Vô Úy, 637-735), Vajra Bodhi (Kim Cương Trí, 671-741), Amoghavajra (Bất Không Kim Cương, 705-774), Padmasambhava (Liên Hoa Sinh, cuối thế kỷ thứ VIII), Dipankarasrijanàna (Atisa, cuối thế kỷ thứ XI).
Mật Tông (zh. 密宗 mì-zōng) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ. Mật Tông lại chia thành hai phái: Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna). Sự phát triển của Mật Tông gắn với các luận sư nổi tiếng như Subha Karasimha (Thiên Vô Úy, 637-735), Vajra Bodhi (Kim Cương Trí, 671-741), Amoghavajra (Bất Không Kim Cương, 705-774), Padmasambhava (Liên Hoa Sinh, cuối thế kỷ thứ VIII), Dipankarasrijanàna (Atisa, cuối thế kỷ thứ XI).
Phái Đại thừa không chỉ thừa nhận Thích Ca là Phật mà còn thừa nhận nhiều Phật khác như Phật Adiđà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư... Ai cũng có thể trở thành Phật và thực tế đã có nhiều người thành Phật như Văn Thù Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát...
Với quan niệm đó, những chùa theo Phái Đại thừa thờ nhiều tượng Phật. Bồ Tát cũng là đối tượng được thờ cúng. Bồ Tát là những người đã đạt được sự hoàn thiện bằng tu luyện, đáng được lên Niết bàn song tự nguyện ở lại trần gian để cứu độ chúng sinh. Trong các vị đó, Quan Âm Bồ Tát được kính trọng nhất.
Phái Tiểu thừa (Hyayana) nghĩa là “con đường cứu vớt nhỏ” hoặc “cỗ xe nhỏ”, chủ trương chỉ những người xuất gia tu hành mới được cứu vớt. Phái này cho rằng những người theo Tiểu thừa phải tự giác ngộ, tự giải thoát cho bản thân mình, không thể giải thoát cho người khác.
Chỉ có Thích Ca là Phật duy nhất, những người bình thường không thể thành Phật. Vì vậy, việc cứu độ chúng sinh chỉ có Phật mới làm được. Với quan điểm đó, về sự thờ phụng, ở các chùa thuộc phái Tiểu thừa chỉ thờ tượng Phật Thích Ca ở chính điện, ngoài ra không có pho tượng nào khác.
Trong quá trình hình thành và phát triển, từ Ấn Độ Phật giáo đã được truyền sang các nước lân cận, ra khu vực Á đông và phát triển trên toàn thế giới. Sự phát triển này, được chia theo 2 hướng: về phương Bắc, gọi là Phật giáo Bắc Tông, mang tư tưởng Đại thừa. Về phương Nam, gọi là Phật giáo Nam Tông, mang tư tưởng Tiểu thừa.
Sự phân chia này không phải do mâu thuẫn về tổ chức hay quyền lợi, địa vị mà do khác biệt trong quan điểm về giáo lý, giới luật
Phái Tiểu thừa quan niệm rằng sinh tử luân hồi và niết bàn là hai phạm trù khác biệt nhau, chỉ khi nào con người thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi thì mới lên được Niết Bàn. Niết Bàn là cõi hư vô, là nơi đã giác ngộ, ở đó không còn khổ não. Muốn đạt tới Niết Bàn, con người phải từ bỏ cuộc sống thế tục và sống một cuộc sống tôn giáo.
Phật giáo Tiểu thừa bảo vệ sự tuân thủ nghiêm ngặt của giáo quy, bám sát các giáo điều của đạo Phật nguyên thủy. Theo các môn đồ Tiểu thừa thì phái này đại diện cho học thuyết thuần khiết và khởi thủy như những gì mà Phật đã thuyết giảng.
Những quan niệm của nó chủ yếu dựa vào các kinh ghi lại lời dạy của Phật tổ, quy tắc kỷ luật tu hành dựa vào Luật tạng. Phái Tiểu thừa được truyền bá ra nhiều nơi, từ Xri Lanka đến Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam…Quá trình phát triển của phái Tiểu thừa cũng chia thành nhiều chi phái, tiêu biểu như Thành thực tông, Luật tông, Câu xá tông…
Phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa là “con đường cứu vớt lớn”, “cỗ xe lớn” được gọi là tôn giáo cải cách. Giáo lý Đại thừa có nhiều cái mới so với đạo Phật nguyên thủy. Phái này cho rằng không chỉ những người xuất gia tu hành mà cả những phật tử cũng được cứu vớt.
Vì vậy, chủ trương người theo đạo Phật Đại thừa không chỉ giải thoát, giác ngộ cho bản thân mà còn có thể giúp nhiều người cùng giải thoát, giác ngộ. Đại thừa chủ trương mỗi người có thể đến Niết Bàn chỉ bằng sự cố gắng của mình, đồng thời chủ trương giải thoát đông đảo cho nhiều người.
Ở Việt Nam - một trong những trung tâm phát triển sớm của Phật giáo thế giới, chứng kiến sự phát triển của cả hai trường phái Tiểu thừa và Đại thừa. Với tư tưởng nhân văn, “từ bi hỉ xả”, bình đẳng giữa các chúng sinh, khuyên con người làm việc thiện, tránh điều ác...Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa đều đã nhanh chóng đi vào lòng người, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình, hưởng ứng và gắn liền với mỗi giai đoạn phát triển của quốc gia, dân tộc.
Phật giáo Đại thừa quan niệm rằng sinh tử luân hồi và Niết Bàn không phải là hai phạm trù khác biệt, ngay trong quá trình tồn tại (quá trình sinh tử) cũng có thể đạt được Niết Bàn. Theo phái Đại thừa, Niết bàn là nơi cực lạc, là thế giới của các vị Phật, giống như Thiên đường của các tôn giáo khác. Ngoài Niết bàn, Đại thừa còn tạo ra địa ngục để trừng trị những kẻ tội lỗi, những ai không tuân thủ giáo quy.
Với quan điểm cách tân của mình, Phật giáo Đại thừa được truyền bá đến nhiều nơi trên thế giới, trước hết là các nước châu Á. Từ Ấn Độ truyền sang Tây Tạng rồi vào Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Trong quá trình đó, phái Đại thừa cũng chia thành nhiều chi phái, tiêu biểu có Pháp tương tông, Tam luận tông, Hoa nghiêm tông, Mật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông.
có nhiều showroom trưng bày và bán hàng, với uy tín của chúng tôi, hiện này chúng tôi đã được khách hàng trong cả nước cũng như nước ngoài đặt mua rất nhiều sản phẩm qua kênh COD (khách hàng nhận hàng và thanh toán tiền mặt).
Với các sản phẩm đa dạng từ mẫu mã đến kiểu dáng: như đồ thờ, tượng phật đồng, tranh đồng ... Ngoài ra còn nhận làm sản phẩm theo yêu cầu, giá cả hợp lý. Chắc chắn có thể làm hài lòng được ngay cả những khách hàng khó tính nhất.
Qúy khách quan tâm đến sản phẩm có thể đến các showroom gần nhất trên toàn quốc, hoặc liên hệ trực tiếp Hotline: 0912.055.661 để được hỗ trợ tốt nhất.
Là người theo đạo Phật, chắc hẳn chúng ta đều nghe nói đến Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc Tông. Nghe qua thì có vẻ như hai trường phái này đối lập hẳn với nhau và không có một mối liên hệ gì với nhau. Nhưng sự thật có đúng như vậy hay không, chúng ta đã hiểu đúng về hai trường phái này hay chưa? Bài viết sau đây sẽ giúp chúng ta biết rõ hơn về hai trường phái Phật giáo này.
Bản chất của trường phái Bắc tông và Nam tông
Một sự thật rằng, bản chất của Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông đều là Phật giáo. Nhưng nó không giống nhau hoàn toàn, nhưng cũng không phải khác biệt đến mức không có điểm gì chung. Hãy tưởng tượng rằng, hai trường phái này chính là hai cánh tay của Đức Phật, chúng tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ cùng một nguồn, đó chính là những học thuyết giáo lý của Đức Phật.
Tại thời của Đức Phật, Phật giáo không chia thành bất kỳ một tông nào, chúng ta khó lòng tìm hiểu được một nguồn lịch sử nói về thời của Đức Phật mà có khái niệm Nam tông và Bắc tông. Nếu chịu khó tìm hiểu, một kết quả duy nhất chúng ta nhận được đó chính là “tăng đoàn”. Thời của Đức Phật chỉ là một tăng đoàn, gồm nhiều người muốn tu tập như Đức Phật, họ gia nhập tăng đoàn và tu. Nhưng đến khi Đức Phật nhập niết bàn, nhiều vấn đề phát sinh, chúng ta dần dần có khái niệm về hai trường phái nam và bắc tông. Cho đến ngày nay, việc phân chia thành hai trường phái này càng rõ rệt và khiến chúng ta tò mò về chúng.
Tại sao Phật giáo lại chia thành Nam tông và Bắc tông?
Khoảng 150 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, trong nội bộ chư tăng có hai luồng quan điểm, ý tưởng khác nhau. Một bộ phận thì cho rằng xã hội ngày càng tiến bộ và văn minh, họ cần hội nhập vào xã hội để tiếp tục tu tập và tiếp độ cho chúng sinh. Nhưng bộ phận còn lại thì không đồng ý với quan điểm đó, họ cho rằng thời của Đức Phật tu tập như thế nào thì mình nên giữ nguyên như thế. Dường như hai bộ phận người này không tìm được tiếng nói chung nên họ quyết định sẽ theo hai trường phái khác nhau.
Những người cùng quan điểm cho rằng cần phải nhập thế, phải thay đổi cách tu cho phù hợp với xã hội thì đi về phía Bắc của Ấn Độ, căn cứ vào đây nên chúng ta gọi là Bắc truyền – nghĩa là Đạo Phật được truyền về phía Bắc. Và những người theo hướng tu này được gọi là Đạo Phật vấn thân nhập thế. Còn bộ phận người còn lại, họ cho rằng họ cần tiếp tục duy trì cách tu của Đức Phật, đi khất thực, mỗi ngày ăn một bữa, người dân cho gì thì ăn nấy chứ không có khái niệm ăn chay. Những người này sẽ đi về phía nam của Ấn Độ nên gọi là nam truyền. Cứ như thế một thời gian dài cho đến ngày nay, chúng ta có hai trường phái Đạo Phật đó là Bắc tông và Nam tông.
Mặc dù được chia ra như thế nhưng hai trường phái này không chống đối lẫn nhau. Chúng đều xuất phát từ đạo Phật nhưng chẳng qua là suy nghĩ của họ không thống nhất với nhau. Suy cho cùng thì chúng ta tu tập theo trường phái nào cũng tốt, cũng là hướng đến sự bình yên, giác ngộ và giải thoát. Đây chính là điểm đích cho những người tu tập.
Quan niệm khác nhau về cách ăn uống của hai trường phái Phật giáo
Đối với những Phật tử tu tập và quyết định ăn chay trường, có thể nói họ là những người tu theo trường phái Bắc tông. Ở trường phái này, những người tu tập thời đó không đi khất thực như Đức Phật nữa, họ hòa nhập với cuộc sống, tự đi chợ mua đồ ăn về và tự nấu ăn. Họ hoàn toàn làm chủ được những món ăn của mình. Là một người tu tập, họ biết được sự đau đớn và sợ hãi của chúng sinh khi sắp bị giết thịt, họ hiểu rằng họ không nên phạm nghiệp sát sinh. Chính vì thế, thay vì mua thịt của chúng sinh về để nấu những bữa cơm hàng ngày, họ sẽ mua các loại rau củ và thực phẩm từ thực vật. Dần dần nó trở thành một nguyên tắc của trường phái Bắc tông, đó chính là ăn chay.
Nhưng với những Phật tử tu theo trường phái Nam tông thời xưa, họ vẫn duy trì cách tu của Đức Phật, vẫn đi khất thực hàng ngày từ 9 giờ đến 11 giờ. Người dân cho họ món gì thì họ ăn món đó, họ hoàn toàn không biết trước được và không dự đoán được hôm nay họ sẽ ăn món gì. Chính vì thế, thật khó cho họ để ăn chay. Họ không thể từ chối thức ăn từ người dân cho họ chỉ vì nó có nguồn gốc từ động vật. Bản chất của khất thực chính là có gì ăn nấy, không đòi hỏi, không chê bai món ăn, có lẽ vì thế mà cho đến ngày nay, quan niệm đó vẫn được gìn giữ nên những người tu theo trường phái Nam tông, họ vẫn ăn mặn bình thường.
Một câu hỏi đặt ra là, liệu rằng trong giáo lý của Đức Phật có nói đến Phật tử không nên phạm giới sát sinh. Nếu theo trường phái Nam tông, chúng ta vẫn ăn mặn, vẫn sử dụng thực phẩm có nguồn gốc từ động vật, liệu rằng nó có mâu thuẫn với giáo lý của Đức Phật hay không? Thật ra, tại thời trước, nếu tu theo trường phái Nam tông thi chúng ta cũng đã biết, họ không làm chủ đươc nguồn thực phẩm họ dùng hàng ngày là gì, người khác cho gì ăn đó nên nó vẫn không mâu thuẫn và không trái với giáo lý của Đức Phật. Nhưng ngày nay thì khác, mỗi ngày chúng ta đều định hình được trong đầu món chúng ta muốn ăn, vậy nếu chúng ta muốn ăn cá, ăn thịt heo, thịt bò hay thịt gà, đó có phải là xuất phát từ chủ đích của chúng ta hay không? Nguồn thịt chúng ta mua về chính là sinh mạng của chúng sinh, chúng ta hoàn toàn có thể lựa chọn một nguồn thực phẩm khác thay thế cho bữa ăn bằng thịt động vật, để bảo vệ mạng sống của chúng sinh, hạn chế được nghiệp sát sinh thì tại sao chúng ta không nên làm chứ?
Phật giáo Nam tông và những điều thú vị
Hai trường phái Phật giáo trên có nhiều điểm khác nhau, nhưng liệu rằng khi tìm hiểu đến đây, bạn đã hiểu rõ về Phật giáo Nam tông hay chưa?
Theo quan niệm của trường phái Nam tông, chỉ có một Phật duy nhất trên cõi đời này chính là Phật Thích Ca, những người bình thường như chúng ta, tu tập nhằm hướng đến giải thoát, giác ngộ thì vẫn không thể trở thành Phật được. Trường phái này cho rằng, chỉ có Phật thích Ca mới có thể cứu độ chúng sinh, còn người tu hành như chúng ta, chúng ta chỉ cứu độ và giải thoát cho chính mình, cõ lẽ cũng vì quan niệm đó mà ngày nay, nhiều chùa theo trường phái Nam tông chỉ thờ một tượng Phật duy nhất ở chánh điện là tượng Phật Thích Ca, chúng ta khó có thể tìm thấy một tượng Phật nào khác được thờ trong ngôi chùa theo trường phái Nam tông.
Những người tu theo trường phái Nam tông, họ thường quấn trang phục màu vàng đậm, điều này khác hoàn toàn với những người tu theo trường phái Bắc tông. Tuy nhiên, ở mỗi nước khác nhau thì trang phục của người tu theo Phật giáo Nam tông cũng có sự khác biệt. Ở Trung Quốc, bộ trang phục này được biến thể theo trang phục của thời Đường, hoặc ở Việt Nam, lâu lâu chúng ta lại thấy có những thầy dùng trang phục như thế nhưng lại là màu nâu. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu, khi Phật giáo du nhập đến một nước nào đó thì tùy theo văn hóa của mỗi nước mà nó có chút biến để để phù hợp hơn. Nhưng dù khác nhau như thế nào thì cách tu vẫn hoàn toàn giống nhau, vẫn tuân thủ nghiêm ngặt những điều mà Đức Phật đã dạy. Theo các môn đồ Nam tông thì phái này đại diện cho học thuyết thuần khiết và khởi thủy như những gì mà Phật đã thuyết giảng
Phật giáo Bắc tông – trường phái phổ biến hiện nay
Nếu theo trường phái Nam tông, họ chỉ thừa nhận trên cõi đời này chỉ có duy nhất Phật Thích Ca thì theo trường phái Bắc tông, họ còn thừa nhận nhiều vị phật khác như Phật A Di Đà, Phật Di Lặc,…và nhiều người có thể thành Bồ Tát như Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát , Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát , Phổ Hiền Bồ Tát …Chính quan niệm này mà dẫn đến sự khác biệt trong cách bày trí chánh điện của những ngôi chùa theo trường phái Bắc tông. Bao giờ chúng ta cũng nhìn thấy ba vị Phật gồm Phật A Di Đà tượng trưng cho các vị Phật thuộc thời xưa, Phật Thích Ca Mâu Ni tượng trưng cho vị Phật thời hiện đại và Di Lặc Tôn Vương phật tượng trưng cho các vị Phật thuộc thời vị lai. Đây là hình ảnh mà chúng ta dễ dàng nhìn thấy nhất khi đến chùa vì dường như nó phổ biến hơn so với trường phái Nam tông.
Như vậy, đến đây chúng ta có lẽ đã hiểu sơ qua về hai trường phái Phật giáo này. Cơ bản chúng có sự khác biệt về những vẻ ngoài, về cách tu tập nhưng mục đích cuối cùng vẫn là hướng đến giác ngộ và giải thoát. Dù chúng ta theo trường phái nào thì cũng vậy, cũng hướng đến cái đích chung, không thể nói Bắc tông tốt hơn Nam tông hay ngược lại. Cái nào cũng là tập hợp những tinh hoa, chắt lọc những ý hay từ lời Phật đã dạy và hướng đến điều thiện lương.